Suy giảm chức năng thận là gì? Các công bố khoa học về Suy giảm chức năng thận

Suy giảm chức năng thận (hay còn gọi là suy thận) là tình trạng mất khả năng hoặc giảm khả năng của thận trong việc lọc và loại bỏ chất thải khỏi máu. Đây là mộ...

Suy giảm chức năng thận (hay còn gọi là suy thận) là tình trạng mất khả năng hoặc giảm khả năng của thận trong việc lọc và loại bỏ chất thải khỏi máu. Đây là một bệnh lý cơ bản của thận và có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Suy giảm chức năng thận có thể là kết quả của nhiều nguyên nhân, bao gồm viêm nhiễm, bệnh lý hệ thống như bệnh tự miễn, bệnh tiểu đường, huyết áp cao, sử dụng thuốc có hại, chấn thương hay bị tắc nghẽn mạch máu thận.
Suy giảm chức năng thận có thể được phân loại thành hai loại chính: suy thận cấp và suy thận mạn tính.

1. Suy thận cấp: Đây là tình trạng suy thận xuất hiện đột ngột, thường trong vòng vài giờ đến vài ngày. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến suy thận cấp, bao gồm:
- Thiếu máu cấp, ví dụ như do mất máu nhiều, giảm áp lực máu dưỡng đến thận.
- Thiều nước cấp, khi cơ thể mất nước quá nhiều hoặc không uống đủ nước.
- Nhiễm trùng nhiễm độc, ví dụ như viêm nhiễm các mô xung quanh thận hoặc đau nhiễm khuẩn trong máu.
- Sử dụng quá liều thuốc làm hại cho thận, chẳng hạn như một số kháng sinh, thuốc chống viêm không steroid (NSAID).

2. Suy thận mạn tính: Đây là tình trạng suy thận kéo dài, thường kéo dài hơn 3 tháng. Suy thận mạn tính thường phát triển từ khi có suy giảm chức năng thận nhẹ và tiến triển dần qua các giai đoạn. Nguyên nhân gây suy thận mạn tính gồm:
- Bệnh thận mạn tính tổn thương, ví dụ như viêm thận mạn tính, lành tính hoá nang thận, xoáy váy tạng
- Bệnh lý hệ thống như bệnh tự miễn, bệnh lý thừa áp, bệnh tim mạch
- Bệnh tiểu đường
- Huyết áp cao
- Sử dụng thiếc có chứa chất độc (như chì, thủy ngân)
- Tăng áp lực máu trong thận do tắc nghẽn mạch máu, ví dụ như sỏi thận, u nang thận...

Suy giảm chức năng thận có thể gây ra nhiều biểu hiện và ảnh hưởng đến sức khỏe, bao gồm tăng ure, creatinine trong máu, tiểu không đồng đều, sưng ở vùng chân và mắt, mệt mỏi, buồn nôn, mất thèm ăn, và có thể dẫn đến suy tim, viêm màng phổi hoặc các biến chứng nguy hiểm khác nếu không được điều trị kịp thời.
Sure! Dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về suy giảm chức năng thận:

1. Các triệu chứng:
- Ù tai, mất ngon, mệt mỏi và thiếu năng lượng.
- Sưng ở vùng chân và mắt, cơ thể có thể giữ nước.
- Thay đổi tiến bộ thân nhiệt (cảm thấy lạnh hoặc nóng).
- Thay đổi tình trạng tâm lý, như khó chịu, lo âu hay khó ngủ.
- Thay đổi tiểu, bao gồm tiểu ít, tiểu tối, tiểu có bọt và có mùi hôi.

2. Các dấu hiệu y tế:
- Tăng ure cơ trong máu (có thể gây buồn nôn, nôn mửa, nguyên nhân của mệt mỏi và thiếu năng lượng).
- Tăng creatinine trong máu (một chất phản xạ sự chuyển hóa cơ bản của cơ thể, tụy và thận). Creatinine tăng là một dấu hiệu của sự suy giảm chức năng thận.
- Tăng kali trong máu (có thể gây cảm giác rối loạn nhịp tim, tê bì, co giật).
- Thay đổi tỷ lệ axit-tơ trong máu (gây rối loạn axit máu và có thể gây cảm giác lười, mệt mỏi, mất kiểm soát và bất ổn).
- Giảm nồng độ canxi và vitamin D (có thể dẫn đến loãng xương).

3. Điều trị:
- Điều trị sẽ tùy thuộc vào nguyên nhân gốc của suy thận. Một số lựa chọn điều trị bao gồm:
+ Thuốc giảm áp (như kháng histamin và ACE-I) để kiểm soát huyết áp.
+ Chế độ ăn uống lành mạnh, giảm natri và chất béo, và tăng lượng nước uống.
+ Nếu suy thận mạn tính trở nên nghiêm trọng, cần điều trị thay thế chức năng thận như đồng tử thận hoặc cấy ghép thận.

4. Phòng ngừa:
- Kiểm tra định kỳ huyết áp, đường huyết và các chỉ số chức năng thận.
- Tránh sử dụng quá liều và lạm dụng các loại thuốc.
- Kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác như bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường và tiểu đường.

Tóm lại, suy giảm chức năng thận là một tình trạng nghiêm trọng có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe. Việc chẩn đoán và điều trị kịp thời là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe thận và chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "suy giảm chức năng thận":

HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA PHÁC ĐỒ BORTEZOMIB, CYCLOPHOSPHAMIDE VÀ DEXAMETHASONE (VCD) TRÊN BỆNH NHÂN ĐA U TỦY CÓ SUY GIẢM CHỨC NĂNG THẬN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Đa u tủy là một bệnh lý ung thư huyết học thường gặp, gây rối loạn chức năng nhiều cơ quan. Tổn thương thận là một trong những biến chứng phổ biến nhất của bệnh đa u tủy. Nhiều khuyến cáo trên thế giới hiện nay đã lựa chọn phác đồ VCD (bortezomib, cyclophosphamide và dexamethasone) là phác đồ ưu tiên cho bệnh nhân đa u tủy có suy giảm chức năng thận. Tại Việt Nam còn ít nghiên cứu về vấn đề này. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị của phác đồ bortezomib, cyclophosphamide và dexamethasone (VCD) trên bệnh nhân đa u tủy mới chẩn đoán có suy giảm chức năng thận. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả hồi cứu được thực hiện tại khoa Huyết học bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ năm 2015-2020 ở bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, mới được chẩn đoán đa u tủy và có tăng creatinin máu > 2 mg/dL hoặc giảm độ lọc cầu thận eGFR < 60 mL/phút/1.73m2, được điều trị bằng phác đồ bortezomib, cyclophosphamide và dexamethasone (VCD). Kết quả: Chúng tôi thu thập được 40 bệnh nhân có độ tuổi là 53,4 ± 9,5 tuổi, nam giới chiếm 77,5%, creatinin máu là 4,6 ± 3,2mg/dL. Sau hoá trị với 4 chu kỳ bằng phác đồ VCD có 77% bệnh nhân đạt đáp ứng lui bệnh một phần hoặc hơn (³ PR), trong đó đạt lui bệnh một phần rất tốt (VGPR) là 27%. Tỷ lệ đáp ứng thận nói chung đạt 85%, trong đó 57% đáp ứng hoàn toàn (CRrenal), 10% đáp ứng một phần (PRrenal) và 18% đáp ứng tối thiểu (MRrenal). Có sự tương quan thuận có ý nghĩa thống kê giữa đáp ứng thận và đáp ứng lui bệnh sau hoá trị với p = 0,002. Kết luận: Phác đồ VCD có hiệu quả điều trị cao trong cả đáp ứng lui bệnh và cải thiện chức năng thận trên bệnh nhân đa u tuỷ mới chẩn đoán có suy giảm chức năng thận.
#đa u tuỷ #suy giảm chức năng thận #bortezomib #cyclophosphamide #dexamethasone
ĐẶC ĐIỂM SUY GIẢM CHỨC NĂNG TRÍ NHỚ TRÊN BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH TRƯỞNG THÀNH TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Bệnh động kinh gây hậu quả là cơn động kinh và có thể gây tổn thương các chức năng cao cấp của não trong đó có chức năng trí nhớ. Điều này dẫn đến suy giảm chất lượng cuộc sống đối với bệnh nhân động kinh. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng suy giảm chức năng trí nhớ trên bệnh nhân động kinh trưởng thành. Đối  tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 144 bệnh nhân được chẩn đoán động kinh theo tiêu chuẩn của Liên hội chống động kinh quốc tế (International League Against Epilepsy) tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 07 năm 2020 đến tháng 07 năm 2021. Kết quả: Có 78 bệnh nhân nam và 66 bệnh nhân nữ với độ tuổi trung bình là 44,2 ± 9,1.Độ tuổi khởi cơn động kinh lần đầu hay gặp nhất ở nhóm dưới 18 tuổi, sau 60 tuổi thì tỷ lệ này cũng có xu hướng tăng lên. Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu, bệnh nhân xuất hiện cơn động kinh cục bộ đơn thuần là nhiều nhất (38,9%,), số lượng bệnh nhân xuất hiện cơn cục bộ phức hợp ít nhất (11,1%). Tỷ lệ bệnh nhân động kinh bị suy giảm trí nhớ là 34,0%, trong đó nam giới chiếm 33,3%, nữ giới chiếm 34,8%, không có sự khác biệt về tỉ lệ suy giảm trí nhớ ở 2 giới.Bệnh nhân có tần suất cơn động kinh dày tỷ lệ bị suy giảm trí nhớ là 58,3%, bệnh nhân bị bệnh kéo dài trên 5 năm tỷ lệ suy giảm trí nhớ là 55,8%. Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân động kinh có tỷ lệ suy giảm trí nhớ tương đối cao, chiếm 34,0%. Bệnh nhân có thời gian mắc bệnh càng lâu, tần suất xuất hiện cơn động kinh càng dày thì tỷ lệ suy giảm trí nhớ càng cao, vì vậy cần có sự can thiệp điều trị tích cực hơn ở nhóm này.
#Bệnh động kinh #cơn động kinh #chức năng trí nhớ
KHẢO SÁT VIỆC HIỆU CHỈNH LIỀU THUỐC THEO CHỨC NĂNG THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát việc hiệu chỉnh liều thuốc theo chức năng thận ở bệnh nhân có chức năng thận suy giảm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên bệnh nhân có CrCl < 60 mL/phút, từ 01/01/2021 đến 31/01/2021 tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Nội dung khảo sát bao gồm đặc điểm bệnh nhân suy giảm chức năng thận, sự phù hợp về hiệu chỉnh liều và các yếu tố liên quan. Việc hiệu chỉnh liều được xem là phù hợp nếu tuân thủ theo tờ hướng dẫn sử dụng thuốc. Kết quả: Trên 111 bệnh nhân, có tổng cộng 4150 lượt kê đơn, trong đó 14,5% (603/4150) lượt kê cần hiệu chỉnh liều. Có 37,1% (225/603) lượt kê có liều hiệu chỉnh không phù hợp. Kháng sinh là nhóm thuốc cần hiệu chỉnh liều nhiều nhất (65,5%). Levofloxacin, piperacillin/ tazobactam và ciprofloxacin có tỉ lệ lượt kê với liều không phù hợp lần lượt là 63,4%, 22,4% và 45,8%. Các yếu tố liên quan đến việc kê đơn liều không phù hợp bao gồm khoa Lão, bệnh kèm liên quan đến thận, số lượng thuốc cần hiệu chỉnh liều. Kết luận: Cần theo dõi và tư vấn cho nhân viên y tế về việc hiệu chỉnh liều theo chức năng thận.
#suy giảm chức năng thận #hiệu chỉnh liều
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH SUY GIẢM VẬN ĐỘNG THEO THANG ĐIỂM BARTHEL VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG TRÊN BỆNH NHÂN SAU ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG NĂM 2020-2021
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 43 - Trang 160-164 - 2021
  Đặt vấn đề: Sau đột quỵ não, phục hồi chức năng để giảm mức độ tàn phế, giúp bệnh nhân thực hiện được các chức năng sinh hoạt hàng ngày và tái hội nhập cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình suy giảm vận động theo thang điểm Barthel và đánh giá kết quả phục hồi chức năng trên bệnh nhân sau đột quỵ não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang và chọn mẫu thuận tiện được 191 bệnh nhân; phân tích số liệu bằng phần mềm STATA 8.0. Kết quả: Số bệnh nhân có mức độ phụ thuộc hoàn toàn chiếm tỷ lệ 34%, sau can thiệp phục hồi chức năng giảm còn 18,9%; trong nghiên cứu, trước can thiệp không có bệnh nhân có mức độ độc lập sinh hoạt hoàn toàn, sau 6 tháng tỷ lệ đạt là 30,9%. Kết luận: Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy phục hồi chức năng có hiệu quả. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ độc lập trong sinh hoạt tăng lên rõ rệt sau 6 tháng phục hồi chức năng, sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê.
#Đột quỵ não #suy giảm vận động #phục hồi chức năng #thang điểm Barthel
Chức năng thần kinh nhận thức ở bệnh nhân ung thư đầu và cổ trước khi điều trị Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 20 - Trang 149-157 - 2011
Suy giảm chức năng thần kinh nhận thức là một vấn đề thường gặp và có ý nghĩa lâm sàng ở những bệnh nhân ung thư, nhưng rất ít nghiên cứu đã được thực hiện trên bệnh nhân ung thư đầu và cổ (HNC). Mục tiêu của chúng tôi là (1) xác định tỷ lệ suy giảm chức năng thần kinh nhận thức ở bệnh nhân HNC mới được chẩn đoán, (2) khảo sát mối liên hệ giữa biểu hiện chức năng thần kinh nhận thức và chức năng thần kinh nhận thức tự báo cáo, và (3) khám phá mối quan hệ giữa chức năng thần kinh nhận thức với các biến số xã hội-dân cư, lâm sàng, mức độ lo âu về triệu chứng và tâm trạng. Bảy mươi bệnh nhân đã thực hiện các bài kiểm tra với một bộ bài kiểm tra tâm lý ngắn gọn và hoàn thành các biện pháp tự báo cáo trước khi bắt đầu điều trị. Bốn mươi bảy phần trăm bệnh nhân HNC trong nhóm nghiên cứu hiện tại cho thấy có suy giảm chức năng thần kinh nhận thức toàn cầu trong các bài kiểm tra tâm lý trước khi bắt đầu hóa trị liệu khởi đầu hoặc xạ trị đồng thời. Suy giảm này phổ biến hơn ở các lĩnh vực chức năng thần kinh nhận thức sau: học tập bằng lời (36%), chức năng điều hành (32%), trí nhớ bằng lời (30%), và tốc độ xử lý (27%). Hiệu suất chức năng thần kinh nhận thức không có mối liên hệ với chức năng thần kinh nhận thức tự báo cáo. Có rất ít mối liên hệ đáng kể giữa hiệu suất chức năng thần kinh nhận thức và các triệu chứng thể chất hoặc tâm lý khác; tuy nhiên, có những mối liên hệ vừa phải mạnh mẽ giữa chức năng thần kinh nhận thức tự báo cáo và các triệu chứng này. Suy giảm chức năng thần kinh nhận thức là phổ biến ở những bệnh nhân HNC mới được chẩn đoán trước khi bắt đầu điều trị. Tác động của suy giảm chức năng thần kinh nhận thức trước điều trị đối với khả năng chịu đựng điều trị, kết quả điều trị, và các nhu cầu chăm sóc là những lĩnh vực quan trọng cho nghiên cứu trong tương lai. Các cơ chế của suy giảm chức năng thần kinh nhận thức trước điều trị cũng cần được khám phá.
#suy giảm chức năng thần kinh nhận thức #ung thư đầu và cổ #hóa trị liệu #xạ trị đồng thời #nghiên cứu lâm sàng
Hormone tuyến giáp liên quan đến nguy cơ mắc bệnh thận mạn tính và sự suy giảm nhanh chóng chức năng thận: một nghiên cứu theo chiều dọc Dịch bởi AI
Journal of Translational Medicine - Tập 14 - Trang 1-9 - 2016
Hormone tuyến giáp đã được liên kết với rối loạn chức năng thận trong các nghiên cứu cắt ngang. Tuy nhiên, các nghiên cứu theo chiều dọc khám phá ảnh hưởng của hormone tuyến giáp đến sự suy giảm chức năng thận còn hiếm hoi và thu được kết quả trái ngược. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu theo chiều dọc để khám phá mối liên hệ của hormone tuyến giáp với bệnh thận mạn tính (CKD) mới khởi phát và sự suy giảm nhanh chóng trong tỷ lệ lọc cầu thận ước lượng (eGFR) ở người trưởng thành Trung Quốc. Những người tham gia đến từ một tập hợp cộng đồng bao gồm 2103 cá nhân từ 40 tuổi trở lên không mắc CKD tại thời điểm bắt đầu. Hormone kích thích tuyến giáp (TSH), triiodothyronine tự do (FT3) và thyroxin tự do (FT4) được đo bằng phương pháp miễn dịch phóng xạ tại thời điểm bắt đầu. Creatinine huyết thanh, creatinine niệu và albumin được đo tại thời điểm bắt đầu và theo dõi. CKD được định nghĩa là eGFR <60 ml/phút/1.73 m2 hoặc tỷ lệ albumin/creatinine niệu ≥30 mg/g. Suy giảm eGFR nhanh chóng được định nghĩa là suy giảm eGFR hàng năm >3 ml/phút/1.73 m2. Trong 4 năm theo dõi, 198 người tham gia phát triển CKD và 165 người trải qua sự suy giảm nhanh chóng eGFR. So với tertile 1, tertile 3 của mức FT4 có liên quan đến nguy cơ mắc CKD tăng 1.88 lần (khoảng tin cậy 95% [CI], 1.27–2.77); và nguy cơ suy giảm nhanh chóng eGFR tăng 1.64 lần (CI 95%, 1.07–2.50) (cả hai đều P cho xu hướng ≤0.02), sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu. Mỗi 1-pmol/l FT4 tương ứng với nguy cơ CKD mới khởi phát tăng 12% và nguy cơ suy giảm eGFR nhanh chóng tăng 10%. Trong số những người mắc CKD mới khởi phát, FT4 có mối liên hệ đáng kể với nguy cơ biến chứng cùng thời và các kết quả tiếp theo của CKD. Chúng tôi không tìm thấy mối liên hệ giữa FT3 hoặc TSH với CKD hoặc sự suy giảm eGFR nhanh chóng. FT4 cao hơn, nhưng không phải TSH và FT3, có liên quan đến nguy cơ mắc CKD mới và suy giảm eGFR nhanh chóng ở những người Trung Quốc trung niên và cao tuổi.
#hormone tuyến giáp #bệnh thận mạn tính #suy giảm chức năng thận #tỷ lệ lọc cầu thận ước lượng #nghiên cứu theo chiều dọc
Suy giảm chức năng ti thể do chế độ ăn nhiều chất béo liên quan đến việc mất khả năng bảo vệ khỏi tiền điều kiện thiếu máu trong thiếu máu tái tưới máu thận Dịch bởi AI
Pflügers Archiv - Tập 475 - Trang 637-653 - 2023
Chế độ ăn nhiều chất béo (HFD) thúc đẩy sự suy giảm chức năng ti thể và điều này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ nghiêm trọng của tổn thương do thiếu máu tái tưới máu (IR) trong các loại tế bào khác nhau. Giai đoạn tiền điều kiện thiếu máu (IPC), một giao thức nổi tiếng mang lại bảo vệ IR cho thận thông qua ti thể. Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi đã đánh giá cách mà thận ở chế độ ăn HFD với những thay đổi ti thể tiềm ẩn phản ứng với giao thức tiền điều kiện sau khi gây ra IR. Những con chuột đực Wistar đã được sử dụng trong nghiên cứu này và được chia thành hai nhóm: SD (chế độ ăn chuẩn; n = 18) và HFD (chế độ ăn nhiều chất béo; n = 18), sau đó được chia nhỏ thành nhóm giả mạo, thiếu máu–tái tưới máu, và nhóm tiền điều kiện vào cuối thời gian chế độ ăn. Hóa sinh máu, dấu hiệu tổn thương thận, độ thanh thải creatinine (CrCl), chất lượng ti thể (phân chia, hợp nhất và phagy), chức năng ti thể thông qua hoạt động enzyme ETC và hô hấp, cùng với các con đường tín hiệu đã được phân tích. Việc áp dụng HFD trong 16 tuần đối với chuột đã làm suy giảm sức khỏe ti thể thận được đo bằng chỉ số hô hấp ti thể ADP/O giảm 10% (trong GM), số lượng ti thể giảm (55%), sinh tổng hợp (56%), tiềm năng sinh năng lượng thấp (19% phức hợp I + III và 15% phức hợp II + III), tăng căng thẳng oxy hóa, và giảm sự biểu hiện của các gen hợp nhất ti thể so với chuột SD. Quy trình IR trong thận chuột HFD đã gây ra sự suy giảm ti thể đáng kể và làm suy yếu số lượng bản sao cùng với suy giảm khả năng mitophagy và động lực ti thể. IPC có thể cải thiện hiệu quả tổn thương thiếu máu thận ở chuột bình thường nhưng không thể cung cấp khả năng bảo vệ tương tự đối với thận chuột HFD. Mặc dù sự suy giảm chức năng ti thể liên quan đến IR ở cả chuột bình thường và chuột HFD là tương tự nhau, độ lớn của sự suy giảm tổng thể và tổn thương thận tương ứng cùng với sinh lý suy yếu là cao hơn ở chuột HFD. Quan sát này đã được xác nhận thêm thông qua thử nghiệm dịch chuyển protein trong ống nghiệm tại ti thể được tách ra từ thận chuột bình thường và HFD cho thấy khả năng phản ứng của ti thể ở chuột HFD giảm đáng kể. Kết luận, chức năng ti thể suy giảm và chất lượng của chúng cùng với số lượng ti thể thấp và sự điều chỉnh tích cực các gen động lực ti thể được thể hiện bởi thận chuột HFD làm gia tăng độ nhạy của mô thận đối với tổn thương IR, từ đó dẫn đến khả năng bảo vệ bị suy giảm bởi tiền điều kiện thiếu máu.
#chế độ ăn nhiều chất béo #chức năng ti thể #tổn thương thiếu máu tái tưới máu #tiền điều kiện thiếu máu #căng thẳng oxy hóa #sinh lý thận
KẾT QUẢ ỨNG DỤNG XẠ HÌNH THẬN ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG THÀNH PHỐ
Đặt vấn đề: Xạ hình thận động từ lâu đã trở thành một trong những kỹ thuật hữu ích khảo sát chức năng của thận và hệ thống bài xuất, đào thải nước tiểu ở cả người lớn và trẻ em. So với người lớn, đây là xét nghiệm được ứng dụng rộng rãi hơn cả và chiếm hơn nửa số chỉ định bệnh nhi đến với đơn vị xạ hình. Tại bệnh viện Nhi đồng thành phố, xạ hình thận động đã được triển khai từ đầu năm 2018 và bước đầu cho thấy vai trò của nó trong việc hỗ trợ quyết định theo dõi và điều trị trên các bệnh nhi. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm thống kê và đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả ứng dụng kỹ thuật xạ hình thận động với dược chất phóng xạ 99mTc-DTPA trên bệnh nhân trẻ em tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố.   Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang dựa trên hồ sơ bệnh án và kết quả chụp xạ hình thận động sử dụng 99mTc – DTPA có test thử thách lợi tiểu của 671 bệnh nhi từ 01 tháng đến 15 tuổi được ghi hình ít nhất 1 lần tại bệnh viện Nhi đồng thành phố từ tháng 06 năm 2018 đến tháng 03 năm 2022. Kết quả: Có tổng cộng 740 lần ghi hình bao gồm 611 trẻ chụp 1 lần, 52 trẻ chụp 2 lần, 7 trẻ chụp 3 lần, 1 trẻ chụp 4 lần. Trong đó, có 454 trẻ nam và 217 trẻ nữ với tỉ lệ nam/nữ là 2/1. Độ tuổi của các bệnh nhi tại thời điểm xạ hình dao động khá nhiều, từ 01 tháng cho đến 15 tuổi. Tuy nhiên, có sự phân bố ưu thế rõ ràng đối với nhóm bệnh nhi dưới 5 tuổi, chiếm 516 trường hợp (~69,7%%), gấp khoảng hơn 3 lần số lần chụp đối với nhóm bệnh nhi từ 5 đến 10 tuổi và gấp khoảng hơn 10 lần so với nhóm bệnh nhi trên 10 tuổi, lần lượt là 175 trường hợp (~23,7%) và 49 trường hợp (~6,6%). Các bệnh nhi xạ hình đến từ nhiều vị trí địa lý khác nhau trong cả nước, tuy nhiên phần lớn các trường hợp nằm trong địa phận thành phố Hồ Chí Mính với 218 trường hợp, chiếm ~ 30% tổng số, theo sau đó là từ các tỉnh miền tây và miền trung, cũng như khu vực Tây Nguyên. Tất cả những bệnh nhi này đều được chẩn đoán, theo dõi, điều trị tại 03 bệnh viện nhi lớn của Thành phố Hồ Chí Minh là Bệnh viện Nhi đồng 1, Bệnh viện Nhi đồng 2 và Bệnh viện Nhi đồng thành phố với tỉ lệ lần lượt là 248 bệnh nhi (36,9%), 313 bệnh nhi (46,6%) và 111 bệnh nhi (~16,5%). Theo đó, việc chẩn đoán, theo dõi bằng kỹ thuật xạ hình thận động sẽ được thực hiện toàn bộ tại Đơn vị Y học hạt nhận của Bệnh viện nhi đồng thành phố. Về mặt chẩn đoán trước xạ hình, sau khi đã xem xét kết quả hình ảnh học giải phẫu, ghi nhận có 436 bệnh nhi (~65,0 %) có tình trạng Thận trái ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên, 154 bệnh nhi (~ 23,0 %) có tình trạng Thận phải ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên, 74 bệnh nhi (~ 11,1 %) có tình trạng Thận ứ nước hai bên có/không kèm dãn niệu quản, và một số ít còn lại gồm 6 bệnh nhi (~ 0,9 %) có các tình trạng bệnh lý như: 02 trẻ có bàng quang thần kinh, 02 trẻ có thận phải loạn sản đa nang, 01 trẻ u thận trái và 01 trẻ có bệnh lý ống thận. Về mặt đánh giá kết quả xạ hình, trong nhóm bệnh nhi Thận trái ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên (N = 436), ghi nhận 163 trẻ (~ 37,3 %) có suy giảm chức năng thận (chức năng tương đối DRF < 40 %), 323 trẻ (~ 74,0 %) có tắc nghẽn đường bài niệu (chỉ số T½ kéo dài trên 20 phút), 99 trẻ (~ 22,7%) có tắc nghẽn đường bài niệu kèm suy giảm chức năng thận, và 37 trẻ (~ 8,4 %) có suy giảm chức năng thận nặng gây hạn chế trong việc khảo sát tắc nghẽn đường bài niệu. Trong nhóm bệnh nhi Thận phải ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên (N = 154), ghi nhận 44 trẻ (~ 28,5 %) có suy giảm chức năng thận, 69 (~ 44,8 %) có tắc nghẽn đường bài niệu, 24 trẻ (~ 15,5%) có tắc nghẽn đường bài niệu kèm suy giảm chức năng thận, 5 trẻ (~ 3,2 %) có suy giảm chức năng thận nặng gây hạn chế trong việc khảo sát tắc nghẽn đường bài niệu. Tương tự, trong nhóm bệnh nhi Thận ứ nước hai bên có/không kèm dãn niệu quản (N = 74), ghi nhận 31 trẻ (~ 41,8 %) có suy giảm chức năng thận ở một trong hai thận, 45 trẻ (~ 60,0 %) có tắc nghẽn đường bài niệu ở một hoặc hai bên, 02 trẻ (~ 2,7 %) có tắc nghẽn đường bài niệu kèm suy giảm chức năng thận, và có 6 trẻ (~ 8,1 %) có suy giảm chức năng thận nặng gây hạn chế trong việc khảo sát tắc nghẽn đường bài niệu. Thêm vào đó, ở tất cả bệnh nhi được thực hiện ít nhất 2 lần xạ hình (N = 60), ghi nhận có  18 trẻ (~ 30,0 %) phát hiện suy giảm chức năng thận (DRF giảm trên 5 % khi theo dõi) và có 8 trẻ (~ 13,3%) gia tăng tình trạng tắc nghẽn đường bài niệu (biểu hiện bằng sự thay đổi đường cong hoạt độ phóng xạ theo thời gian). Khoảng cách thời gian xạ hình theo dõi dao động từ 3 tháng đến 24 tháng, tuy nhiên đa phần các trường hợp này phát hiện trong vòng 12 tháng đầu từ lần xạ hình đầu tiên. Như vậy, chúng tôi nhận thấy trong 671 bệnh nhi xạ hình lần đầu, có 125 trường hợp (~ 18,6 %) dãn đài bể thận niệu quản kèm suy giảm chức năng thận và trong 60 bệnh nhi xạ hình theo dõi ít nhất 2 lần, có 18 trường hợp (~ 30 %) phát hiện suy giảm chức năng thận ở các lần ghi hình sau. Đây là nhóm đối tượng có nguy cơ diễn tiến đến mất chức năng thận. Kết luận: Xạ hình thận động với 99mTc DTPA hiện nay vẫn còn là một trong những công cụ quan trọng trong việc chẩn đoán và theo dõi bệnh lý thận ứ nước ở trẻ em, đặc biệt là vai trò phát hiện sớm tình trạng thận có nguy cơ diễn tiến đến mất chức năng nhằm mục đích có biện pháp can thiệp kịp thời để bảo tồn chức năng thận. Việc ứng dụng kỹ thuật này tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố bước đầu đã cho thấy những lợi ích mang lại cho bệnh nhi cũng như nhà thực hành lâm sàng một công cụ đắc lực cho quyết định điều trị bên cạnh các kỹ thuật hình ảnh học khác.
#99mTc DTPA #Xạ hình thận động #Thận ứ nước #Tắc nghẽn đường bài niệu #Suy giảm chức năng thận #.
Thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân suy giảm chức năng thận tại Bệnh viện Quân đội Trung ương 108
Mục tiêu: Xây dựng danh mục thuốc chống chỉ định trên bệnh nhân suy giảm chức năng thận dựa trên đồng thuận tài liệu và phân tích thực trạng sử dụng tại Bệnh viện Trung ương Quân đội (TWQĐ) 108. Đối tượng và phương pháp: Danh mục thuốc theo mức lọc cầu thận (MLCT) khuyến cáo chống chỉ định theo MLCT được xây dựng dựa trên sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý trên thế giới. Thực trạng sử dụng thuốc được xác định bằng nghiên cứu hồi cứu lượt kê đơn thuốc trên bệnh án điện tử của bệnh nhân tại Bệnh viện TWQĐ 108 trong khoảng thời gian 6 tháng cuối năm 2022. Các dữ liệu được thu thập bao gồm: Tuổi bệnh nhân, giới tính, cân nặng, bệnh mắc kèm, tiền sử dùng thuốc và kết quả xét nghiệm creatinin. Kết quả: Từ hơn 2500 thuốc thuộc danh mục của bệnh viện, 14 hoạt chất đủ điều kiện đưa vào danh mục nghiên cứu. Trong số 143261 lượt kê đơn từ tháng 7/2022 tới tháng 12/2022, 485 lượt thuốc có khuyến cáo ở mức độ chống chỉ định được phát hiện (chiếm 0,34%). Ngoài ra, với 95396 bệnh nhân được kê đơn ít nhất một loại thuốc trong danh mục vừa xây dựng, 0,16% (n = 151) bệnh nhân có sử dụng ít nhất một loại thuốc có khuyến cáo mức độ chống chỉ định. Franilaxâ (Spironolacton & Furosemid) là thuốc gặp phải phổ biến nhất, chiếm 64,3% tổng số bệnh nhân. Kết luận: Nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho thấy sự cần thiết để bệnh viện xây dựng quy trình quản lý sử dụng thuốc trên bệnh nhân suy thận nặng. Việc ứng dụng CDSS vào phần mềm kê đơn có thể là một giải pháp cho thực trạng này.
#Suy thận nặng #thuốc chống chỉ định #sai sót sử dụng thuốc #an toàn thuốc #bệnh án điện tử.
Đánh giá suy giảm chức năng thị giác do đục thủy tinh thể của bệnh nhân tại Bệnh viện Mắt Cao Thắng
Đục thủy tinh thể tạo nhiều gánh nặng về kinh tế và xã hội. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đục thủy tinh thể đang ảnh hưởng đến 65.2 triệu người và là nguyên nhân gây mất thị lực từ trung bình đến nặng của hơn 80%. Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 340 bệnh nhân đục thủy tinh thể đến khám tại Bệnh viện Mắt Cao Thắng nhằm đánh giá mức độ suy giảm chức năng thị giác do đục thủy tinh thể theo bộ câu hỏi VF-14 và các yếu tố liên quan. Kết quả điểm trung bình mức độ suy giảm chức năng thị giác là 49.3 ± 16.9 điểm. Phân loại mức độ: Không suy giảm: 0.88%; Suy giảm tối thiểu: 0.29%; Suy giảm nhẹ: 2.35%; Suy giảm vừa phải: 79.12%; Suy giảm nghiêm trọng: 15%; Suy giảm rất nghiêm trọng: 2.35%. Ngoài ra, một số yếu tố liên quan đến suy giảm chức năng thị giác gồm: học vấn sau đại học (PR = 1.129, p = 0.015), nhóm nghề nghiệp khác (PR = 1.112, p = 0.021), tình trạng thị lực, nguyên nhân đục thủy tinh thể do chấn thương (PR = 1.050, p = 0.004) và thứ phát (PR = 1.048, p = 0.001), hình thái đục thủy tinh thể: độ chín toàn bộ (PR = 1.050, p = 0.01) và độ chín căng phồng (PR = 1.056, p = 0.001). Khoa Khám bệnh của Bệnh viện Mắt Cao Thắng cần bổ sung thêm phương pháp đo thị lực thường xuyên cho bệnh nhân, cần khám và tư vấn toàn diện hơn đưa chỉ định phẫu thuật phù hợp đối với người chỉ đục thủy tinh thể một mắt.
#đục thủy tinh thể #suy giảm chức năng thị giác #Bệnh viện Mắt Cao Thắng
Tổng số: 19   
  • 1
  • 2